Lịch Ta, Lịch Tàu và sự khác biệt
Đoan Hùng
Ngày
8/8/1967 chính phủ VNDCCH ra quyết định cải cách âm lịch. Qua sự cải cách đó
tết Mậu Thân ở miền Bắc tới sớm hơn ở miền Nam (theo lịch cũ) một ngày (
29/1/68 và 30/1/68). Đúng vào đêm 30 tết Mậu Thân quân đội cộng sản bất ngờ
tổng tấn công trên khắp miền Nam, lúc đó ở miền Bắc đã là đêm mồng một tháng
giêng. Hai sự kiện đó được sử gia Trần Gia Phụng liên kết lại trong bài "Lịch và Thơ giết người". Sự kiện cải cách lịch
được ông chứng minh như là một âm mưu quân sự nằm trong toàn bộ kế hoạch tổng
tấn công này. Sự "tính toán" của các lịch gia Hà Nội được sử gia TGP
xem là "sai quy luật thiên nhiên" và "nói
trắng ra, nhà cầm quyền Bắc Việt ra lệnh cho Nha Khí tượng Hà Nội là phải bớt
đi ngày năm Đinh Mão để Tết Mậu Thân ở Bắc Việt sớm hơn một ngày ở Nam Việt
theo lịch cũ". Từ đó nhiều sự kiện tưởng như nhỏ nhặt và thông
thường như sự nêu ra quyết định số 121/CP trong sách lịch được sử gia Trần Gia
Phụng xem như là vì "nha khí tượng sợ
trách nhiệm về sau này trước lịch sử.." , hoặc sự kiện Nguyễn
Xiển chỉ đạo việc sửa lịch được ông khẳng định là nhằm mục đích đen tối là trút
trách nhiệm: "nếu có gì bất lợi phát hiện, thì
Nguyễn Xiển và đảng Dân Chủ phải chịu
trách nhiệm chứ Hồ Chí Minh và đảng LĐ không dính dáng đến việc sửa lịch"..
Việc sửa lịch theo sử gia Trần Gia Phụng "còn gây
những ảnh hưởng tai hại về sau này.." vì "..Việt Nam là một
nước nông nghiệp. Đối với nhà nông Việt Nam, sự ghi chép lịch không đúng với
quy luật thiên nhiên, đưa đến việc dự đoán sai thời tiết, gây trở ngại và thiệt
hại lớn lao cho nông dân".
Muốn
biết Hà Nội làm thế nào để.. ăn gian mất một ngày và "dối
trời" ra sao, thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về lịch
nói chung và lịch pháp Á Đông nói riêng cũng như mối liên hệ của nó đối với
thời tiết và sự vận chuyển của thiên thể.
1. Đôi nét khái quát về lịch
Như
ai nấy đều biết, đời sống của con người gắn bó mật thiết đến sự sáng tối, nóng
lạnh, thời tiết và hiện tượng ấy bắt nguồn từ sự vận chuyển của trái đất, mặt
trăng, và mặt trời. Sự vận chuyển "nghiêng góc" của trái đất quanh
mặt trời quyết định thời tiết, mùa màng. Sự vận chuyển của mặt trăng quanh trái
đất ảnh hưởng đến thủy triều, đến đời sống các sinh vật...Từ đó nảy sinh khái
niệm ngày, tháng, năm, mà sự sắp xếp của
nó theo một quy ước nào đó , hợp với thiên nhiên là lịch.
Giá
như tạo hóa dựng nên trời đất với bàn tay chính xác của.. một người thợ đồng hồ
để cho một tháng chẵn chòi 28 ngày, một năm chẵn 12 tháng thì hẳn
"tiện" cho loài người biết bao! Đằng này mặt trăng quay quanh trái
đất theo chu kỳ 29.530588 ngày, trái đất chu du quanh mặt trời mất 365.2422
ngày. Và dĩ nhiên là con người chẳng thể sống với quy định là "tháng x bắt
đầu từ ngày y lúc z giờ" được! Tóm lại lịch phải "làm chẵn" các
chu kỳ tự nhiên. Khi làm chẵn tất sinh ra sai lệch, và muốn lịch không sai với
tự nhiên thì phải chỉnh lại sau một thời gian và ấy là phép "nhuận".
Dương
lịch bỏ qua số lẻ của trăng mà chỉ giải quyết phần "dương". Một năm
có 365 ngày, ngắn hơn năm thời tiết 0.2422 ngày. Cứ 4 năm thì bù thêm một ngày
vào năm nhuận để chỉnh lại cho hợp thời tiết. Như thế thì lại hơi dài nên cứ
300 năm lại bỏ đi ba năm đáng nhuận trở thành năm thường. "Thuần" âm
lịch ,như lịch Á Rập, bỏ phần "dương" và chỉ làm chẵn phần lẻ của tuần
trăng với quy định tháng đủ, tháng thiếu lần lượt bù trừ cho nhau. Một năm có
12 tháng và ngắn hơn năm thời tiết. Vì không được chỉnh lại, nên năm âm lịch
không còn dính dáng đến thời tiết.
Âm
lịch dùng ở Đông Á thực ra là âm-dương lịch. Bởi nó bao gồm cả hai yếu tố âm và
dương. Các lịch gia trải qua bao đời đã tìm cách "khớp" cả hai số lẻ
(số ngày trong tháng, số tháng trong năm). Và vì phải tìm ra phương cách để làm
chẵn cả hai số lẻ (thay vì một như dương lịch) nên phép nhuận của âm-dương lịch
phức tạp và khó nhớ hơn dương lịch. Năm âm lịch với 12 tháng ngắn hơn năm thời
tiết khoảng 11 ngày, sau khoảng 2-3 năm thì phải chỉnh lại bằng cách thêm một
tháng nhuận. Như thế năm ấy có 13 tháng.
Khi
ta làm chẵn số lẻ, tức nhiên là đã chấp nhận một sai số tối đa là vào hàng đơn
vị tính toán. Âm-dương lịch làm chẵn tháng với đơn vị ngày và năm với đơn vị
tháng nên: Sai số tối đa của tháng đối với tuần trăng là một ngày và của năm
đối với năm thời tiết là một tháng. Đơn vị nhuận của dương lịch là ngày, nên
năm dương lịch chính là năm thời tiết với sai số một ngày. Như thế phải chăng
âm-dương lịch thiếu chính xác so với dương lịch? Nếu chỉ căn cứ vào tháng theo
kiểu "tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà.." thì hẳn cả thế giới Đông Á phải.. tiệt chủng
vì đói do mất mùa liên tục!
2. Năm, Tháng, Ngày, Khí trong âm lịch
Thực
ra âm-dương-lịch rất chính xác và chi ly! Nói về tháng là chỉ nói chừng chừng,
đại khái mà thôi. Còn chính xác hơn về thời tiết thì đó là các thời điểm KHÍ
trong âm lịch mà người nông dân dùng nó làm mốc mà gieo, cấy, gặt... Chẳng hạn
như giở âm-dương-lịch ra thì ngày hôm nay là ngày 14/2/2001 tức ngày Đinh Sửu,
20 tháng 12, Kỷ Sửu năm Canh Thìn, KHÍ Đại Hàn. Tìm hiểu kỹ hơn ta sẽ thấy
trong âm dương lịch có hai hệ thống tháng: tháng tuần trăng và "tháng"
thời tiết (giữa các điểm khí). Muốn hiểu rõ hơn về hai hệ thống này cũng như
cách sắp xếp ngày, tháng, năm, nhuận của âm-dương-lịch thiết tưởng chúng ta nên
đi sâu vào định nghĩa của các khái niệm này cũng như mối liên hệ của nó với sự
vận chuyển của "trời đất".
Một
ngày bắt đầu từ điểm nửa-đêm và chia làm
12 giờ (Tý-Hợi) . Một giờ lại được chia thành hai khoảng: Sơ và Chính. Một ngày không bắt đầu bằng giờ đầu tiên là
giờ tý mà ở điểm bắt đầu của chính tý.
Giờ tý như thế có hai phần, nửa đầu thuộc ngày hôm trước. Nhìn kỹ lại ta thấy
thực ra xưa cũng như nay ngày dều chia thành 24 khoảng. Chính Tý tương đương
với 0 giờ, Sơ Sửu là 1 giờ sáng.
Tháng
thể hiện sự vận chuyển của mặt trăng. Khi mặt trăng và mặt trời ở cùng một
hướng đối với trái đất và xoay nửa tối về phía ta thì gọi là thời điểm SÓC
(nghĩa là trăng sống lại). Khi nó ở hướng ngược lại và xoay nửa sáng về phía ta
thì gọi là thời điểm VỌNG (nghĩa là trông). Khi người ta quan sát chuyển động
biểu kiến trên tinh cầu thì thấy nó chạy trên quỹ đạo gọi là BẠCH ĐẠO. Chu kỳ
của trăng để đi hết một vòng bạch đạo, từ điểm sóc này đến điểm sóc tới gọi là
SÓC-SÁCH. Ngày chứa
điểm SÓC là ngày mồng một, là điểm gốc để bắt đầu một tháng. Số ngày
trong tháng được làm chẵn thành tháng đủ 30 ngày và tháng thiếu 29 ngày.
Năm
thể hiện sự vận chuyển của trái đất quanh mặt trời, hay về mặt thiên văn biểu
kiến mà nói, thì mặt trời chạy vòng trên tinh cầu theo quỹ đạo gọi là
HOÀNG-ĐẠO. Trên hoàng đạo có bốn điểm chính là xuân phân, hạ chí, thu phân và
đông chí là các điểm mốc để phân định thời tiết. — điểm "phân" cuả
xuân và thu ngày và đêm dài bằng nhau. — điểm "chí" của hạ thì (đối
với bắc bán cầu) ngày dài (nhất) so với đêm còn ở điểm đông chí thì ngược lại.
Đứng về mặt vị trí trái đất mà nói thì ở điểm hạ chí trái đất nghiêng bắc bán
cầu vào phía mặt trời và điểm đông chí thì ngược lại. Từ bốn điểm mốc đó người
ta phân nhỏ hơn thành 24 thời điểm gọi là KHÍ là các điểm mốc về thời tiết. Khí
được phân làm hai loại: TIẾT là ngăn chia, và TRUNG là giữa. Như vậy ta có 12
trung khí và tiết khí xen kẽ nhau. Chính ở khái niệm khí này mà ta thấy trong
âm lịch có một hệ thống phân bổ "tháng" (khoảng giữa hai điểm trung
hay tiết) song hành với dương lịch, nghĩa là với năm thời tiết. Mỗi điểm khí có
một ngày tương ứng trong dương lịch. Tên gọi các khí mang ý nghĩa về thời tiết
hay muà màng.
Sau
đây là một vài điểm khí trong năm với ý nghĩa, tính chất và điểm tương ứng của
nó trong dương lịch (với sai số 1 ngày):
Đông Chí (trung,giữa đông, 22/12) ; Tiểu Hàn (tiết, rét vừa, 6/1) ; Đại
Hàn (trung, rét gắt, 21/1).Lập Xuân (tiết,đầu xuân,5/2) ; Vũ Thuỷ (trung,mưa
nước,29/2) ; Kinh Trập (tiết,sâu bọ tỉnh dậy,5/3) ; Xuân Phân (trung,giữa
xuân,20/3) ; Thanh Minh (tiết,trời trong,5/4) ...
Nếu
xem 12 khoảng giữa các "tiết" hoặc "trung" như một hệ thống
"tháng thời tiết" thì ta thấy âm-dương-lịch không khác gì với dương
lịch. Ta có thể nói một cách khác là: trong âm-dương-lịch có hai hệ thống
"tháng" : tháng tuần trăng và
"tháng thời tiết" với độ dài hơi chênh nhau. Tuần trăng có 29.53 ngày
và tháng thời tiết là 30.41 ngày (đây là số trung bình bởi vì mặt trăng và trái
đất xoay có khoảng nhanh khoảng chậm, theo định luật thứ hai của Kepler). Vấn
đề là đặt ra quy tắc để hai hệ thống tuần-trăng và thời-tiết song hành với nhau
với độ chênh ít nhất như có thể. Quy tắc đó là phép NHUẬN.
Muốn
hình dung ra phép nhuận chúng ta hãy tưởng tượng ra hai xâu chuỗi thời gian:
chuỗi tuần trăng với các hạt là điểm sóc màu xanh, chuỗi thời tiết với các hạt
là điểm trung-khí màu đỏ. Cầm hai chuỗi chập lên nhau ta sẽ thấy: mới đầu giữa
hai hạt xanh thế nào cũng có một hạt đỏ, sau đó các hạt xanh do khoảng cách
ngắn hơn dần dà di động thụt lui so với hạt đỏ, và đến một lúc nào đó sẽ có hai
hạt xanh nằm gọn trong khoảng hai hạt đỏ. Khác với các khoảng khác, lúc này giữa
hai hạt xanh không có một hạt đỏ nào. Nếu ta
giả vờ "quên" không đếm khoảng ấy thì sự phân bổ các hạt cuả hai
chuỗi bớt lệch đi và lại trở lại "song hành" như trước. Khoảng ấy gọi
là "nhuận". Với nguyên tắc đó các lịch gia đặt ra quy tắc: Tháng không có trung khí là tháng nhuận. Tháng nhuận đó
không tên gọi cũng như can chi riêng (nói cách khác: không được
"đếm") mà mang tên của tháng trước với từ Nhuận ở kế bên. Thời xưa,
ngày sóc tháng nhuận, vua không làm lễ cốc-sóc như mọi đầu tháng mà chỉ đứng ở
cửa nhà cáo-miếu chứ không vào, vì thế chữ "nhuận" được viết là chữ
"vương" là vua ở giữa chữ "môn" là cửa.
3. Do đâu có sự khác biệt?
Như
thế ta thấy cách sắp xếp lịch dựa trên thời điểm của các "biến cố" về
thiên văn. Các biến cố này tuy xảy ra cùng một lúc (thời gian tuyệt đối) nhưng
lại được ghi lại bằng ngày, giờ là thời gian "tương đối", thay đổi
theo vị trí (kinh độ) của điểm quan sát trên trái đất. Điều này dẫn đến tới vấn
đề có tính nguyên tắc là: Cách ghi chép âm-dương
lịch (sự phân bố ngày tháng năm) chịu ảnh hưởng bởi vị trí quan sát!
Lịch
cho điểm A có thể khác biệt ( khác chứ không
phải sai-biệt) với lịch cho điểm B nếu hai
điểm không cùng kinh độ. Sở dĩ ở trên tôi dùng chữ "ghi" là cốt nhấn
mạnh rằng cả hai tuy khác nhau nhưng không cái nào sai đối với thiên nhiên cả.
"Khác" là khác cách ghi chép mà thôi! Nếu tôi nói nhật thực xảy ra
lúc 15.20 phút (giờ California) thì người khác nói là nói xảy ra lúc 18.20 ở
New York, thì không có ai sai ở đây cả.
Tính chất này rất quan trọng mà ta cần biết khi muốn tìm hiểu âm-dương-lịch. —
đây ta lại có vấn đề "sai số ở hàng đơn vị" khi "làm chẵn".
Điều này dẫn tới: sự khác biệt của lịch ở hai nơi có thể lên đến một ngày hoặc
thậm chí một tháng!
Thí
dụ như thời điểm xảy ra SÓC được ghi nhận ở một điểm A vào lúc 15 giờ thì đối
với điểm B cách đó 5 múi giờ về phía tây nó được ghi nhận là lúc 10 giờ. Điều
đó không ảnh hưởng gì cả. Nhưng nếu nó xảy ra tại A vào lúc 2 giờ sáng thì đối
với B lại là 9 giờ đêm ngày hôm trước.
Điều này dẫn tới: Tháng này đối với B hụt mất trọn một ngày
và trở nên tháng "thiếu" trong khi đó tháng lại "đủ" đối
với B. Nếu tình cờ điểm "trung khí" cũng xảy ra ở ranh giới này thì
sự khác biệt có thể là một tháng vì tại A là "nhuận" mà tại B thì
không! Do sự khác biệt này xảy ra khi có sự trùng hợp khá đặc biệt của các biến
cố thiên văn ở những điểm chuyển ngày, chuyển tháng. Vì thế về đại thể thì lịch
tại hai nơi khác nhau phần lớn vẫn trùng hợp với nhau mà sự dị biệt chỉ là
ngoại lệ.
Đến
đây chúng ta có thể cùng nhau "lật tẩy" việt cộng trong sự gian dối
về ngày tháng vào thời điểm tết Mậu Thân theo nguyên tắc của lịch pháp
"Ngày chứa điểm Sóc là ngày mồng một". Ta biết: điểm gốc quan sát của
lịch mới là múi giờ thứ 7 và của lịch cũ
theo giờ Bắc Kinh hoặc theo múi giờ thứ 8. Dựa theo đó trong năm 1968 điểm SÓC
của tháng giêng xảy ra vào lúc nào? Bằng cách nào cộng sản đã tự tiện bớt đi
một ngày của tháng chạp năm đinh mùi như sử gia Trần Gia Phụng khẳng định?
Không
có gì dối trá dược lâu dài dưới ánh sáng của.. internet! Chỉ cần vào yahoo search engine kiếm khái
niệm "new moon", chỉ sau 5 phút
chúng ta có thể kiếm ra thời điểm SÓC vào đầu năm 1968 tại một web site
[4] của U.S. Naval Observatory với số liệu như sau: Jan 29 , 16.29 UT (Universal
time).
Như
vậy điểm SÓC xảy ra ở múi giờ 7 (kinh độ 105 đông) vào lúc 23.29 ngày 29/1 và ở
múi giờ 8 (kinh độ 120 đông) vào lúc 0.29 ngày 30/1. Phiền quá! Chẳng lẽ các
lịch gia Hà Nội tính.. đúng theo thiên
văn!? Ngày mồng một (chứa điểm SÓC) như thế ở múi giờ thứ 7 là ngày 29/1 dương
lịch và theo múi giờ thứ 8 là ngày 30/1. Tháng chạp năm Đinh Mão
theo giờ Việt Nam trở thành "thiếu" mà ở Bắc Kinh hay theo lịch
"cũ" thì lại là "đủ".
Năm
1985 tết Ất Sửu sớm hơn một tháng và theo sử gia Trần Gia Phụng điều đó khiến
cho "lá cao su chưa rụng" và công
nhân đồn điền phải nghỉ thêm một tháng. Điều này được sử gia xem như một minh
chứng đó là "ảnh hưởng tai hại lâu dài về sau này"
của "việc đổi lịch và chép lịch sai với những quy
luật thiên nhiên". Nếu chấp nhận luận cứ của sử gia là đúng thì
tất nảy ra một câu hỏi "cắc cớ" như sau: Nếu đằng nào cũng là sai với
thiên nhiên mà lịch gia Hà Nội ăn gian bớt mất đi một ngày ở năm 1968 thì tại
sao họ không rình rình lúc không ai để ý để mà.. len lén nhét đại vào thêm một
ngày một năm nào sau đó sao cho lịch trở lại như xưa? Ăn vụng thì phải biết
chùi mép! Cớ sao họ lại để cho sự "sai lầm" tiếp diễn khiến cho đến
1985 nó "sai" hết một tháng! Vậy ta hãy kiểm lại thời gian 1984/1985
về mặt thiên văn.
Để
dễ hiểu chúng ta cần nhớ lại quy định của lịch pháp "Tháng
không có trung khí là tháng nhuận" và biết thêm quy tắc
giả-nhuận: "nếu trong vòng 20 tháng trước đó đã có tháng
nhuận thì tháng đó là giả-nhuận, nghĩa là không tính là nhuận nữa".
Năm Giáp tý (1984) theo múi giờ thứ 7 tất cả các thời điểm trung khí lọt vào
tất cả khác tháng, nên ở VN năm đó là năm thường. Trong tháng 12/1984 có một sự
"trùng hợp oái oăm" xảy ra:
1)
Điểm
SÓC xảy ra lúc 11.47 UT ngày 22/12 (theo web site [4]), tức là ở VN lúc 18.47
và ở TH 19.47 cùng ngày. Ngày 21/12 như thế là ngày cuối của tháng 11 âm lịch
của ta cũng như tàu.
2)
Trung
khí Đông Chí (winter solstice) xảy ra vào lúc 16.23 (UT) ngày 21/12/84, có thể
xem ở web site [5]. Như thế ở VN là lúc 23.23 ngày 23/12 tức ngày cuối tháng 11
âm lịch, mà ở bên TH đã là 0.23 ngày đầu tháng sau!
Tháng 11 VN như thế có trung-khí mà ở TH thì KHÔNG! Bởi thế cùng tháng ấy mà ở
VN là tháng 11 thường, ở TH là tháng 10 NHUẬN. Bước sang ngày 22/12 thì ở VN là
đầu tháng chạp mà ở TH thì còn là đầu tháng 11! Ngày Tết do lẽ đó mà chênh nhau
một tháng.
Quy
luật "nhuận" có tính "bù trừ" nên lịch sẽ "tự
chữa" sau đó không lâu. Trung khí xuân phân xảy ra ở Việt Nam vào lúc
23.08 giờ ngày cuối tháng hai, sang tháng sau thì lại không có trung khí nên
Việt Nam có tháng hai nhuận. Cùng điểm xuân phân đó lại xảy ra ở Trung Hoa vào
lúc 0.08 giờ ngày đầu tháng hai làm cho tháng giêng không có trung khí. Tháng
giêng ở Trung Hoa lẽ ra cũng phải nhuận nhưng vì vừa mới nhuận ba tháng trước
nên theo quy tắc giả-nhuận nó trở thành tháng thường. Do được bù trừ như thế mà từ tháng ba Ất Dậu trở đi hai lịch
lại ăn khớp với nhau như trước. Xin tóm gọn sự khác biệt giữa hai lịch trong
khoảng thời gian này theo một "chuỗi" như sau ( mỗi ngoặc đơn là một
tháng , số trước là tên tháng Việt Nam, số sau là Trung Hoa) :
[
10 - 10 ) - ( 11 - 10 Nhuận ) - ( 12 - 11 ) - ( 1 - 12 ) - ( 2 - 1) - ( 2 nhuận
- 2 ) - ( 3 - 3 )
4. Đôi điều nhận xét
Tóm
lại sự khác biệt của lịch là do điểm quan sát mà các lịch gia Hà Nội đã viết
trong "Lịch thế kỷ XX" như sau:
"Phần
này tính căn cứ theo quyết định số 121/CP ngày 8-8-1967 của Hội Đồng Chính Phủ.
Đã tính tất cả 792 ngày tiết và 408 tháng âm lịch, trong đó có 217 tháng đủ,
191 tháng thiếu, 12 tháng nhuận. Trong thời gian 33 năm sắp tới trên thế giới
sẽ xảy ra 73 nhật thực và 48 nguyệt thực: — nước ta sẽ trông thấy 10 nhật thực
và 29 nguyệt thực. Ngày tháng âm lịch trong thời gian nói trên đều tính theo
giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7. Nó khác với lịch cũ hoặc tính theo
giờ Bắc Kinh (Vạn Niên Thư) hoặc tính theo múi giờ thứ 8 (Nhị bách niên lịch
biểu). Cụ thể là từ 1968 đến năm 2000 có tất cả là 29 ngày tiết và 26 tháng âm
lịch thiếu, đủ khác vời lịch cũ. Sự khác nhau đó đưa đến kết quả là, so với
lịch cũ, ngày tết Mậu Thân (1968) và Kỷ Dậu (1969) sớm hơn một ngày. Ngày tết
Ất Sửu (1985) sớm hơn một tháng... Các tư liệu lịch sử cũng như các phần tính
toán trong lịch đã được thẩm tra qua nhiều tư liệu trong nước và nước
ngoài..".
Tôi
không có "Lịch thế Kỷ XX" trong tay và
chỉ trích lại qua bài của sử gia Trần Gia Phụng. Đoạn văn trên khá chi tiết đủ
để chúng ta nắm một cách đại lược công việc của các lịch gia cũng như điểm mốc
mà họ dùng. Không hiểu sao sử gia TGP trích dẫn mà không hề chú ý đến những chi
tiết rất quan trọng về mặt lịch pháp đó? Mà như ai nấy đều biết, lịch pháp là
một "công cụ" vô cùng quan trọng trong sử học. Cần phải minh định
rằng tôi không có ý định "bào chữa cho Hà Nội" hay khẳng định rằng sự
sửa lịch và tổng tấn công Mậu thân không có liên quan gì đến nhau. Tôi tôn
trọng ý kiến của ông như một "nghi vấn lịch sử". Chỉ có điều là chúng
ta đang bàn về lịch sử mà sử học cần có sự chính xác nhất định của nó. Nhất là
khi vấn đề cụ thể chúng ta đang bàn dính dáng về lịch pháp, một lĩnh vực có thể
"đo" và "tính" được. Chỉ xin phép được bàn phiếm thêm rằng,
nếu như đó quả là một âm mưu có dự tính trước thì tất nó phải đến từ một
"quân sư", và người này phải nắm vững quân sự, thiên văn học, lịch
học để "biết trước" điểm sóc xảy ra vào cuối năm Kỷ Mùi là một trường
hợp thiên văn khá hi hữu, lại phải kết hợp thêm điều kiện "múi giờ"
thì.. vân vân.. và lợi dụng nó vào mục
đích quân sự. Nếu như ta biết rằng điều đó chẳng phải là đơn giản mà chính các
chuyên gia có thể không biết về nó, ngay cả "sau khi" đã đọc lịch.
Một quân sư "trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý" theo kiểu
"tam quốc chí" như thế có thể có thực trên đời được chăng?
Cho
dù các lịch gia Hà Nội có ý đồ hay âm mưu gì đi nữa thì họ vẫn viết lịch đúng
theo lịch pháp và thiên nhiên. Chỉ có thể chứng minh rằng họ sai nếu như ta có
thể xác quyết được rằng: lịch phải được tính từ điểm mốc là Bắc Kinh và không
được dời đi đâu hết! Dời đi thì nó sai! Nhưng nếu như thế thì lịch pháp ấy chỉ
đúng với.. Trung Hoa mà thôi, và ta dùng nó làm gì? Ngay chính Trung Hoa cũng
không ngần ngại gì khi thay đổi điểm quan sát, thí dụ như từ năm 1929 họ quy
định lại mốc quan sát là múi giờ thứ 8 (kinh độ 120 Đông)
thay vì Bắc Kinh ở kinh độ 116.466. Sự chênh lệch khoảng 3 độ rưỡi
về kinh độ dẫn đến sự chênh lệch khoảng 14 phút về thời gian. Nếu như các biến
cố thiên văn xảy ra trong khoảng nửa đêm +- 14 phút thì sự khác biệt về lịch
mới, cũ cũng sẽ phải xảy ra ngay chính với bản thân Trung Hoa. Nhật Bản, từ năm
1684, cũng bắt đầu dùng kinh tuyến nước mình làm mốc cho lịch với sự tính toán
của các lịch gia Shibukawa, Yashitomi.. Và nếu ta công nhận rằng có thể đổi
điểm quan sát thì tất phải dẫn đến kết luận: Dùng múi giờ thứ 7 cho
lịch Việt là hợp lý và không có gì là sái với thiên nhiên cũng như lịch pháp.
Trở
lại mối liên hệ giữa năm và năm thời tiết thì như trên đã viết: Tháng chỉ có
thính "chừng chừng đại khái" so với thời tiết. Trong một năm chỉ có
tháng 11 (tháng tý, đầu chi) là có thể nói là "khớp" nhất đối với
thời tiết. Lịch pháp quy định: Ngày đông chí phải luôn
luôn nằm trong tháng Tý. Muốn thế lại phải có ngoại lệ cho quy luật
nhuận: Nếu tháng đáng nhuận lọt vào tháng 11 hay 12
(tý,sửu) thì là giả-nhuận, tức là đẩy tháng nhuận ấy vào năm sau, ở tháng thứ
ba. Làm như thế để "cột" tháng vào thời tiết, sao cho
không chệch nhau quá đáng. Như thế ta thấy, ở khoảng đầu năm, nếu so với
"trung bình" thì tháng sẽ du di, sớm trễ khoảng 15 ngày. Ngày tết bởi
thế cũng xê dịch trong khoảng 21/1 đến 20/2 dương lịch.
Để ý là trong năm Giáp Tý (1984) ngày đông chí rớt vào đầu tháng 11 ở Việt Nam
và và ở Trung Hoa là vào cuối tháng. Do đấy mà tết ở Việt Nam sớm nhất và ở
Trung Hoa trễ nhất trong khoảng "giới hạn cho phép". Nói cách khác
không phải là theo lịch mới tết tới quá sớm so với cũ
mà phải nói cả hai đều đi đến điểm giới hạn "sớm
quá" và "trễ quá" so với trung bình. Cả hai đều
"sai" khoảng +- 15 ngày. Kiểm sang các năm khác thì thấy theo lịch cũ
tết năm 1966 cũng vào ngày 21/1 DL, và năm nay vào ngày 24/1 (cả cũ lẫn mới), đều đến rất sớm so với thời tiết. Cây cao su năm 1966 hay
2001 có chịu rụng lá chưa? Câu trả lời có lẽ nên dành cho các nhà thảo mộc học.
"Mới"
và "cũ" chênh nhau như thế, cả hai đều chênh với thời tiết, vậy ta phải "đọc" lịch như thế nào
cho đúng? Thiết tưởng rằng nếu có vấn đề nào đó liên hệ chỉ với mùa (tức là với
mặt trời) như cấy, gặt.. thì người ta phải căn cứ vào khí, nếu chỉ liên hệ với
trăng như thủy triều, con nước.. thì
phải căn cứ vào tháng, và nếu liên hệ đến cả hai thì phải biết cách kết hợp. Ăn
thua là biết cách đọc lịch, chứ cả hai đều ghi lại theo thiên nhiên cả. Xin lấy
một ví dụ trên thực tế ở quê tôi, miền trung, thì trước khi có lúa thần nông,
người nông dân căn cứ vào ngày đông chí để bắt
đầu ngâm thóc giống mà gieo mạ. Sau một tháng năm ngày thì bắt đầu cấy mạ mất
khoảng năm, mười ngày. Vị chi khoảng gần một tháng rưỡi khổ công dưới tiết mùa
đông lạnh buốt. Xong việc thì cũng thường thường là vào mùa tết và "tháng
giêng là tháng ăn chơi". Cứ theo quy trình đó thì ở năm 1985 theo lịch mới
nông dân quê tôi phải cấy trong cả các ngày tết! Và theo lịch cũ họ lại ở không
đến khoảng hai tuần chờ tết! Ấy là nói ví dụ thôi, chứ ở thời điểm 1985 thì đã
có lúa thần nông và người ta đã có thể "xạ" thẳng mà không qua quá
trình gieo mạ nữa.
Chúng
ta đang ở vào mùa xuân, để làm cho bài bớt "khô" và nặng nề tôi xin
kể cùng bạn đọc một ví dụ về lịch và..
thơ. Ai trong chúng ta chẳng biết câu thơ của thi hào Nguyễn Du: "Thanh Minh trong tiết tháng ba. Lễ là tảo mộ hội là đạp
thanh". Lẩn thẩn tôi tự hỏi rằng.. Nguyễn Du nói có
"đúng" không và lục tìm trong lịch [6] vào những năm mà nàng Kiều có
thể sống, nghĩa là "rằng năm Gia Tĩnh triều Minh"
( 1522-1567 ) , thì thấy thi hào ta đã "sai" đến khoảng 25 % ! Nghĩa
là trong khoảng 45 năm ấy có đến 12 năm tiết thanh minh nằm trong tháng hai!
Hoặc giả nếu Nguyễn Du chỉ tả cụ thể ngày nàng Kiều du xuân thì ta có thể làm..
nhà trinh thám mà loại suy rằng nàng chẳng thể gặp chàng Kim vào các năm Gia
Tĩnh thứ 5,7,10,12,14... Viết đến đây tôi nghe văng vẳng như có tiếng thi hào
mắng mỏ: Kẻ hậu sinh láo toét! Chẳng lẽ mi muốn "hiệu đính" thơ ta
thành "Thanh Minh trong tiết tháng hai.. cho đến đầu tháng ba"? Và
tôi, mồ hôi toát đầy trán mà tạ rằng: Ấy là con nói nhăng về lịch thôi mà!
Nói
về sự khác nhau giữa "mới" và "cũ" chúng ta có thể tự hỏi:
"Cũ" là cũ thế nào? Phải chăng đây là lần đầu tiên lịch
"ta" chệch với lịch "tàu"? Xem kỹ lại thì thấy
"cũ" thật ra không cũ gì lắm! Nghĩa là chỉ từ năm 1813 khi triều
Nguyễn quyết định dùng phương pháp Lịch Thời Hiến mà ban hành lịch Hiệp Kỷ. Sau
1945 không còn cơ quan "khâm thiên" nữa thì lịch "cũ" thực
chất ra là lịch Tàu. "Cũ" hơn nữa thì Lịch Ta không hoàn toàn ăn khớp
với lịch Tàu. Lịch thời Lý khác lịch Tống đương thời. Trong khoảng từ đầu thế
kỷ XIV đến giữa thế kỷ XVII lịch hai nước giống nhau. Sau đó lại khác nhau cho
đến 1813. Đó là kết quả một công trình nghiên cứu công phu của Giáo sư Hoàng
Xuân Hãn [2], mà người viết bài này hy vọng có dịp trình bày trong một bài
khác.
Đoan Hùng
Thư Mục:
Tác
phẩm [2] của GS HXH viết rất chi tiết về lịch pháp. Vấn đề năm 1985 được giáo
sư đề cập trong [3]. Ngoài ra ta có thể tìm các quy tắc của âm lịch trên rất
nhiều web site.
[1]
La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập I, NXB Giáo Dục, 1998
[2]
Lịch và lịch Việt Nam, trong [1] trang 851.
[3]
Năm Ất Sửu cầm tinh con trâu hai đầu?, trong [1] trang 357.
[4]
http://riemann.usno.navy.mil/AA/data/docs/MoonPhase.html
[5]
http://einstein.stcloudstate.edu/Dome/equiSol.html
[6]
http://www.sinica.edu.tw/~tdbproj/sinocal/luso.html
==============================
Trong
bài này tôi dùng italic khi:
1/
trích dẫn
2/
nhấn mạnh
3/
các "quy tắc lịch pháp"
Đoan Hùng
*
* *