|
104.
Xem ngày kén giờ
Việc cưới xin, việc làm nhà cửa, việc vui mừng khai hạ,
việc xuất hành đi xa, việc khai trương cửa hàng, cửa hiệu, việc gieo mạ cấy
lúa, việc tế tự, việc thương biểu, việc nhập học, việc xuất quân, việc an
táng... việc gì thường cũng bắt đầu làm việc gì, hoặc động thổ hoặc xuất
hành, hoặc khai bút, khai ấn... lại cần xem ngày lắm. Đến những việc vụn vặt
như cạo đầu xỏ tai cho trẻ thơ, việc tắm gội, may áo... cũng có người cẩn
thận quá trong kén ngày.
Kén thì phải xem đến lịch. Sách lịch do toà khâm thiên
giám soạn ra. Mỗi năm về ngày mồng một tháng chạp, Hoàng Đế ngự điện khai
trào, các quan Khâm thiên giám cung tiến Hiệp Kỷ Lịch, rồi khâm mạng vua mà
ban lịch khắc nơi...
... Ban lịch trọng thể nhất là để cho thiên hạ biết
chính xác nhất tiết khí, tháng thiếu tháng đủ, ngày tốt ngày xấu, để tuân
hành được đều nhau.
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên
đức, nguyệt đức, thiên ân, thiên hỷ... hoặc là ngày trực khai, trực kiến,
trực bình, trực mãn thì là ngày tốt. Ngày nào có những sao hung tính như sao
trùng tang, trùng phục, thiên hình, nguyệt phá thì là ngày xấu.
Kiêng nhất là ngày sát chủ, ngày thụ tử, việc gì cũng
phải tránh. Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm, mười bốn, hai mươi ba, gọi
là ngày nguyệt kỵ, việc gì cũng nên kiêng và nhất là nên kiêng nhập phòng.
Trong một năm lại có mười ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ nhật, hết
thảy việc gì cũng phải tránh những ngày ấy.
Những ngày ấy là:
Ngày 13 tháng giêng |
Ngày 11 tháng hai |
Ngày 9 tháng ba |
Ngày 7 tháng tư |
Ngày 5 tháng năm |
Ngày 3 tháng 6 |
Ngày 8, 29 tháng bảy |
Ngày 27 tháng tám |
Ngày 25 tháng chín |
Ngày 23 tháng mười |
Ngày 21 tháng một |
Ngày 19 tháng chạp |
Hễ phạm phải ngày ấy thì việc gì cũng hư hỏng không
thành.
Phàm việc lại cần kén ngày hợp mệnh, mà kiêng ngày tuổi.
Ngoại giả lại còn những ngày thập linh, ngày đức hợp là tốt, ngày thập ác
đại bại, ngày tứ lỵ, ngày tứ tuyệt là xấu
Nói qua mâý việc dân gian cần dùng nên kén nên kỵ.
Cưới xin nên tìm ngày thiên đức, nguyệt đức, kỵ ngày trực phá, trực nguy.
Làm nhà nên tìm ngày thiên ân. Thiên hỷ, kỵ ngày thiên hoả, địa hoả và
ngày kim lâu. Xuất hành nên tìm ngày lộc mã, hoàng đạo, kỵ ngày trức phá,
trực bế. An táng nên tìm ngày thiên hỷ, thiên đức, kỵ ngày tử khí quan
phù...
Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới bắt đầu như lúc
mới xuất hành, lúc mới ra ngõ đi cưới, lúc mới dựng nhà, lúc hạ huyệt...
Thường đều kén lấy giờ hoàng đạo. Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ bốn
câu thơ:
Dần, thân gia tý; mão dậu dần
Thìn, tuất tầm thìn: tý ngọ thân;
Tị, hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tòng tuất định kỳ chân
Lại cần phải nhớ hai câu:
Đạo viễn kỷ thời thông đạt
Lộ dao hà nhật hoàn trình.
Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày gì, rồi dùng
hai câu thơ dưới mà bấm theo giờ ở bốn câu thơ trên. Hễ bấm mà gặp cung
nào có chữ "đạo, viễn, thông, đạt, dao hoàn" thì giờ ấy là giờ
hoàng đạo...
... Xét phép chọn ngày, từ đời Đường, Ngu, Tam đại đã có. Song khi bấy
giờ thì chỉ tuỳ việc mà chọn ngày: Nội sự dụng nhu, ngoại sự dụng cương.
Nội sự là việc trong như việc tế tự cưới xin... thì dùng những ngày âm can
là các ngày: ất, đinh, kỷ, tân, quý. Ngoại sự là việc ngoài như đánh dẹp,
giao thiệp... thì dùng ngày dương can là các ngày: Giáp, bính, mậu, canh,
nhâm. Dùng như thế chỉ có ý làm các việc êm ái, hoà nhã thì theo về ngày
âm, việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương, nghĩa kén lấy ngày có
chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi.
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số mỗi ngày mới
bày thêm ra ngày tốt, ngày sao xấu, ngày này nên là việc nọ, ngày kia nên
làm việc kia. Hết ngày rồi lại có giờ sinh, giờ hợp, giờ xung, giờ khắc,
động làm việc gì cũng phải xem ngày, kén giờ, thực là một việc phiền toái
quá. Đã đành làm việc gì cũng nên cẩn thận, mà chọn từng ngày, kén từng
giờ mà phí câu nệ khó chịu. Mà xét cho kỹ thì có ích gì đâu, chẳng qua
việc thành hay bại cốt do ở người chớ có quan hệ gì ngày tốt hay ngày xấu.
Nếu cứ chọn ngày giờ mà nên việc thì không cần gì phải dùng đến sức
người nữa hay sao ?
(Trích "Việt Nam phong tục" Phan Kế Bính) |